Thứ Ba, 24 tháng 3, 2009

Software : IDM 5.15 full

Internet Download Manager 5.15

[FD's BlOg] - Internet Download Manager là 1 trong những phần mềm hỗ trợ download nhanh nhất...
Phiên bản mới hỗ trợ đầy đủ Windows Vista, YouTube, Google Video, MySpaceTV, IE7 và Firefox...


Các chức năng chính:
-Hỗ trợ hầu hết các trình duyệt phổ biến.
-Download dễ dàng, chỉ cần bạn nhất chuột vào link download ở bất cứ trình duyệt nào IDM hỗ trợ.
-Tăng tốc 500% nhờ công nghệ phân đoạn thông minh.
-Dừng tải về máy/Tiếp tục tải về máy
-Cài đặt dễ dàng và nhanh chóng.
-Kiểm tra virus file download (trên máy bạn phải có chương trình quét virus).
-Tích hợp vào các trình duyệt và “tóm cổ” bất cứ thứ gì nhận dạng được ví dụ như khi trang web chơi một file mp3 thì một cửa sổ IDM sẽ hiện ra và bạn chỉ cần bất nút là file mp3 đó là của bạn mà không phải cực khổ dò link thủ công.
-Xây dựng lịch biểu download: nối mạng – download – ngắt kết nối.
-Hỗ trợ nhiều proxy servers.
-Hỗ trợ các giao thức xác thực Basic, Negotiate, NTLM, and Keberos.
-Chức năng download all, “tóm” tất cả các thứ trên trang web bất kỳ.
-Tùy chỉnh giao diện như hệ thống nút chức năng.
-Phân loại file download vào các danh mục giúp công việc quản lý dễ dàng hơn.
- Hỗ trợ update.
-Giới hạn băng thông download.
-Hỗ trợ “drop link”.
-Hỗ trợ đa ngôn ngữ, hiện đã có lưu hành bản tiếng Việt.

IDM 5.15 Full
Download IDM 5.15
Crack

Thứ Hai, 23 tháng 3, 2009

Software : BitComet 1.10

BitComet 1.10
[FD's BlOg] - BitComet là phần phềm miễn phí dùng để chia sẻ dữ liệu thông qua giao thức peer to peer, hoàn toàn tương thích với BitTorrent, và hiện là một trong những cổng truyền tải dữ liệu phổ biến nhất được thiết kế dành cho việc phân phối các file có kích thước 100MB hoặc thậm chí là hàng GB.

►Download:BitComet

Bitcomet là chương trình tải bittorent dễ dàng sử dụng, an toàn, nhanh chóng, và rất mạnh mẽ. Nó hỗ trợ download nhiều dữ liệu cùng một lúc, hoặc từng cái một theo danh sách được chọn, phục hồi việc tải dữ liệu nhanh chóng, có thể chat, chiếm dung lượng bộ nhớ nhỏ, giới hạn được tốc độ, có bộ lọc ip, proxy, port…

Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2009

Những khái niệm căn bản về mạng máy tính

[FD's BlOg] - Bài viết này mình xin giới thiệu một số kiến thức về mạng máy tính.





I. Khái niệm cơ bản:

1. Mạng máy tính: Là 2 hay nhiều máy tính được kết nối với nhau.
2. Máy chủ - Máy khách:

Trong mạng máy tính, máy chủ (hay còn gọi là server) là một máy tính được sử dụng để các máy tính khác truy cập. Các máy tính truy cập vào 1 máy chủ được gọi là máy khách.

Như vậy, 1 máy tính trong mạng có thể vừa là 1 máy chủ (khi có máy khác truy cập đến nó), vừa là một máy khách (nếu nó truy cập đến một máy tính khác). Vì vậy đừng nên nghĩ rằng máy chủ là 1 cái gì đó cao siêu.

3. Giao thức mạng:

Các máy tính trên mạng "nói chuyện" với nhau thông qua một ngôn ngữ đặc biệt gọi là các giao thức mạng. Có rất nhiều giao thức khác nhau, mỗi giao thức có 1 nhiệm vụ riêng. Ở đây tôi tạm chia ra làm 2 nhóm giao thức:
- Giao thức truyền dữ liệu, chuyên dùng để vận chuyển dữ liệu giữa 2 máy tính.
- Giao thức xử lý dữ liệu, có nhiệm vụ xử lý dữ liệu nhận được từ giao thức truyền dữ liệu

Túm lại: Không nên phát hoảng khi nghe thấy 2 từ giao thức. Chẳng qua nó chỉ là 1 dạng ngôn ngữ để trao đổi với nhau mà thôi. Và bạn cứ yên chí rằng nếu thích, bạn có thể tự định nghĩa ra một cái giao thức nào đó. Chẳng hạn như các chương trình chat của Yahoo, hay các chương trình remote trojan… Chúng tự đẻ ra các giao thức riêng dựa trên nền giao thức TCP/IP đấy.

4. Chùm giao thức TCP/IP

Giao thức TCP/IP là 1 giao thức được sử dụng để truyền dữ liệu giữa 2 máy tính. Theo giao thức này, mỗi máy tính sẽ có 1 địa chỉ xác định trên mạng gọi là địa chỉ IP. Địa chỉ IP là một cụm chữ số có dạng a.b.c.d (a,b,c,d là các số từ 0 đến 255). VD: 174.178.0.1.

Giao thức TCP/IP chỉ có nhiệm vụ duy nhất là truyền dữ liệu giữa 2 máy tính và đảm bảo giữ nguyên vẹn dữ liệu khi truyền đi. Ngoài ra nó chẳng cần biết dữ liệu đó là gì và được xử lý như thế nào.

Dựa trên khả năng vận chuyển của giao thức TCP/IP, người ta xây dựng nên một nhóm các giao thức khác chuyên xử lý dữ liệu nhận được từ TCP/IP, gọi là chùm giao thức TCP/IP hay họ giao thức TCP/IP.

Để phân chia các giao thức con trong chùm giao thức TCP/IP, người ta sử dụng một khái niệm khác gọi là Cổng giao thức. Đây là 1 con số nguyên từ 0 đến 32767 thì phải :p. Mỗi giao thức con trong chùm giao thức sẽ chiếm hữu một cổng riêng. Thông thường thì mỗi chương trình ứng dụng trên server sẽ chịu trách nhiệm mở một cổng TCP/IP, định nghĩa giao thức cho cổng đó, và sau đó là lắng nghe các yêu cầu từ máy khách và xử lý các yêu cầu đó.

Như vậy, trong hệ giao thức TCP/IP, một máy khách sẽ truy cập thành công đến máy chủ nếu như nó có địa chỉ IP và cổng đang mở của dịch vụ trên máy chủ.

Chẳng hạn: Với 1 máy chủ quản lý web (web server), chúng ta cần phải có một ứng dụng web gọi là web server. Ứng dụng này sẽ mở 1 cổng (mặc định là 80) và xử lý các tín hiệu đến từ cổng đó.

II. Trang Web tĩnh và Trang Web động
1. Trang web tĩnh và trang web động

Bạn đã từng xây dựng một trang Web và đưa nó lên mạng? Trang web của bạn thật là thú vị (ít nhất là theo ý nghĩ của bạn Cheesy) và tất nhiên bạn muốn tham khảo ý kiến của người đọc? Chẳng nhẽ bạn lại cho số điện thoại và yêu cầu người góp ý phải gọi điện đến? Hic… Đảm bảo sẽ chẳng có ma nào thèm gọi điện.
Bạn muốn "xin" một ít thông tin về người duyệt Web… hic. Làm cách nào bây giờ???
Vâng, đó chính là nhược điểm của cái gọi là trang web tĩnh. Đó là các trang Web không cho phép bạn có thể tương tác với người dùng (chẳng hạn như là trao đổi hay thu thập các thông tin từ phía người dùng). Nó là các trang web có đuôi *.htm thông thường. Ngược lại, các trang Web động cho phép bạn nhận thông tin từ người dùng, xử lý thông tin đó, và có thể đáp trả lại các yêu cầu của họ. Xem ra nó cũng linh động ra phết đấy chứ?

2. Lập trình Script

Các trang web nguyên thuỷ sử dụng ngôn ngữ định dạng chuẩn là HTML (HyperText Markup Language). HTML chuẩn chỉ bao gồm các cặp thẻ đánh dấu để định khuôn dạng của tài liệu. Tuỳ theo tên thẻ là gì mà trình duyệt sẽ tự động hiểu và làm các công việc do thẻ đó quy định. Chẳng hạn như cặp thẻ …. quy định đoạn văn bản trong đó sử dụng chữ đậm. Vì vậy, trên thực tế người ta không coi nó là một ngôn ngữ (vì nó chẳng liên quan gì đến những thứ mà ta hay gặp trong lập trình như biến, câu lệnh rẽ nhánh, lặp…). Cũng chính vì nguyên nhân này, nó phải tự mở rộng bằng cách cho phép "nhúng" vào bản thân nó một số đoạn mã lệnh chương trình đặc biệt, người ta thường gọi chúng là các đoạn mã Script hay các đoạn mã nhúng . Ngôn ngữ sử dụng trong các đoạn mã lệnh đó gọi là các ngôn ngữ Script. Các ngôn ngữ script thường đơn giản và không có nhiều sức mạnh như các ngôn ngữ "kinh điển" cùng tên, hay nói cách khác, chúng là một phần rất nhỏ của một ngôn ngữ nào đó được tích hợp vào trình duyệt để thực hiện một số thao tác nhất định.
Chi tiết về ngôn ngữ HTML đã có đầy rẫy trên Internet, cũng như ở các hiệu sách, nên chúng không được nhắc lại ở đây. Nếu các bạn chưa biết gì về nó thì bạn phải tìm đọc các tài liệu về HTML trước khi tiếp tục theo dõi khoá học này.

Lập trình Script ở máy khách

Như tên gọi của nó, lập trình script ở máy khách là viết các đoạn script chạy trên máy khách. Các đoạn mã này được máy chủ gửi kèm trong tài liệu, đưa về máy khách và được thực hiện ở đây.
Trong tài liệu gửi về trình duyệt, các đoạn mã này thường được tìm thấy trong cặp thẻ
.
Có nhiều ngôn ngữ script phía máy khách. Nổi tiếng hơn cả là Javascript. Kế đến là VbScript và PerlScript.
Vì tài liệu này chủ yếu tập trung vào PHP - một ngôn ngữ script chạy trên máy chủ, nên chi tiết những ngôn ngữ này không được nhắc đến trong tài liệu. Riêng về JavaScript, các bạn có thể tìm thấy các tài liệu tiếng Việt qua trang tìm kiếm Vinaseek.com. Nếu có thời gian, tôi khuyên các bạn nên tìm hiểu về chúng. Rất nhiều xảo thuật bắt mắt có thể tìm thấy trong các đoạn mã này.

Click vào đây để tham khảo một tài liệu về JavaScript

Lập trình Script ở máy chủ

Trái ngược với lập trình Script ở máy khách (thực thi mã lệnh ở máy khách), lập trình script ở máy chủ cho phép thực thi các đoạn mã ngay ở trên máy chủ. Không như các đoạn mã script hoạt động ở máy khách, các tài liệu có chứa các đoạn mã script phía máy chủ thường được lưu ở các file tài liệu có đuôi mở rộng riêng biệt, và các đoạn mã thi hành trên máy chủ cũng phải được đặt trong một cặp thẻ đặc biệt tuỳ theo quy định của chương trình xử lý. Chú ý rằng đối với mỗi loại ngôn ngữ server script sẽ có một chương trình xử lý riêng. Chẳng hạn các đoạn mã ASP thường được đặt trong các file *.asp, và chúng được xử lý bằng file ASP.dll.
Chi tiết về cách thức hoạt động của loại này, có thể tóm tắt như sau:
- Bước 1: Client gửi yêu cầu đến máy chủ
- Bước 2: Web server kiểm tra xem yêu cầu đó cần loại tài liệu nào. Nếu đó là loại tài liệu có chứa các đoạn mã server script, nó sẽ triệu gọi chương trình xử lý tương ứng với loại tài liệu đó
- Bước 3: Chương trình xử lý sẽ thực thi các đoạn mã server script trong tài liệu đó, và trả kết quả (thường là dưới khuôn dạng HTML) về cho web server.
- Bước 4: Web server trả kết quả tìm được cho Client và ngắt kết nối.

Khám phá : Chim sẻ có thể chọn giới tính cho con

[FD's BlOg] - Sau khi sẻ mái giao phối với một anh chàng không như ý, phần lớn trứng trong tổ của chúng sẽ nở thành chim đực.





Một đàn sẻ cầu vồng tại Australia. Ảnh: angelo.edu.


Ở phần lớn loài chim trên hành tinh, giới tính của một quả trứng được quyết định trước khi chim trống thụ tinh. Nhưng Sarah Pryke, một nhà sinh vật học của Đại học Macquarie (Australia), khẳng định những con mái của loài sẻ cầu vồng (Chloebia gouldiae) có thể thay đổi giới tính của chim non. Bà nhận thấy khi chim mái giao phối với con đực không phù hợp, 70% trứng sẽ nở thành con đực.

Sẻ cầu vồng sinh sống ở các khu vực gần nguồn nước, bìa rừng ở miền bắc và miền trung Australia. Người ta gọi chúng là sẻ cầu vồng vì bộ lông của chúng có nhiều màu sắc. Tất cả sẻ cầu vồng đều có lông màu tím ở ngực nên chúng còn được gọi là sẻ ngực tím. Chiều dài thân của sẻ trưởng thành vào khoảng 12-14 cm.

Lông trên đầu sẻ cầu vồng có màu đen, đỏ và vàng, trong đó sẻ đầu đen chiếm khoảng 75%. Chim mái có thể nhận ra con trống phù hợp về gene bằng cách nhìn vào đầu. Nếu màu sắc trên đầu con trống trùng với màu trên đầu con mái thì chúng là cặp đôi phù hợp. Việc giao phối với chim trống có cùng màu sắc trên đầu giúp chim mái đẻ ra những đứa con khỏe mạnh hơn. Trong trường hợp đó, số lượng con đực và con cái trong ổ trứng sẽ bằng nhau.

“Sẻ mái không muốn giao phối với con đực có màu lông trên đầu khác với chúng. Nhưng nhiều con không thể tìm được những con trống có cùng màu lông trên đầu. Vì thế mà khi đẻ trứng chúng phải sử dụng biện pháp tăng số lượng con đực để giảm thiểu rủi ro cho chim non”, Pryke nói.

Sẻ đầu đen chiếm 75% tổng số sẻ cầu vồng, trong khi cứ vài nghìn con mới có một con sở hữu chiếc đầu màu vàng. Ảnh: angelo.edu.


Để chứng minh rằng chim sẻ mái có thể kiểm soát giới tính của chim non, tiến sĩ Pryke và cộng sự thử đánh lừa chim mái. Họ chọn vài con trống đầu đỏ rồi bôi đen lông trên đầu của chúng. Sau đó nhóm nghiên cứu nhốt chúng vào lồng có chim mái đầu đỏ và đầu đen.

“Sẻ mái không nhận ra màu lông đầu thực sự của chim trống. Chúng hoàn toàn bị đánh lừa”, Pryke nói. Kết quả cho thấy khi chim mái đầu đen giao phối với chim trống đầu đen giả mạo, tỷ lệ đực và cái trong ổ trứng bằng nhau. Còn ở tổ chim mái đầu đỏ, số lượng chim đực non chiếm tới 70% dù nó được giao phối với con trống có cùng màu lông đầu.

“Đây là bằng chứng rõ ràng và đáng thuyết phục nhất về hiện tượng thiên vị giới tính ở chim”, Pryke khẳng định. Tuy nhiên, cách thức chim kiểm soát giới tính của trứng vẫn là điều bí ẩn. “Chúng tôi nghĩ rằng các hoóc môn có thể đóng một vai trò nào đó, nhưng giả thuyết này cần được kiểm chứng”, Pryke nói.

Internet - Những khái niệm cơ bản

Những khái niệm về Internet

[FD's BlOg] - Bài viết này xin gửi tới các bạn những khái niệm cơ bản về Internet như : DOS, ISP, RFC, DNS... giúp các bạn hiểu rõ hơn về mạng internet.
Download
Kích thước:310.5KB

Phím tắt trong Windows

Những phím tắt trong Windows

[FD's BlOg] - Bạn đã khá quen với việc dùng chuột để chạy các ứng dụng trong Windows nhưng với việc sử dụng phím tắt trên bàn phím, bạn có thể tiết kiệm thời gian , công việc trở nên rất hiệu quả , ngòai ra thao tác của bạn sẽ trở nên pro rất nhiều.Ở đây mình chỉ giới thiệu phím tắt dùng cho WIN, ngòai ra mỗi chương trình cũng có nhiều phím tắt riêng.(Nguồn xaluan)

1/ Phím tắt chung

Phím Chức năng
Ctrl + C Sao chép
Ctrl + X Cắt
Ctrl + V Dán
Ctrl + Z Hoàn lại tác vụ vừa thực hiện
Delete Xóa
Shift + Delete Xóa vĩnh viễn một đối tượng, không phục hồi được bằng cách vào thùng rác
Ctrl + kéo thả Sao chép đối tượng đang chọn
Ctrl + Shift + kéo thả Tạo lối tắt cho đối tượng đang chọn
F2 Đổi tên đối tượng đang chọn
Ctrl + > Di chuyển con trỏ đến một điểm chèn về phía sau 1 từ
Ctrl + < Di chuyển con trỏ đến một điểm chèn về trước sau 1 từ
Ctrl + mũi tên lên Di chuyển con trỏ đến một điểm chèn lên trên một đoạn
Ctrl + mũi tên xuống Di chuyển con trỏ đến một điểm chèn xuống dưới một đoạn
Ctrl + Shift + mũi tên Chọn một khối văn bản
Shift + mũi tên Chọn các đối tượng trên màn hình Desktop, trong cửa sổ Windows, trong các phần mềm soạn thảo
Ctrl + A Chọn tất cả
F3 Tìm kiếm một tập tin, thư mục
Ctrl + O Mở một đối tượng
Alt + Enter Xem thuộc tính của đối tượng đang chọn
Alt + F4 Đóng đối tượng đang kích hoạt, thoát chương trình đang kích hoạt
Ctrl + F4 Đóng cửa sổ con trong ứng dụng đa cửa sổ như Word, Excel...
Alt + Tab Chuyển đổi qua lại giữa các cửa sổ đang mở
Alt + ESC Di chuyển vòng quanh theo thứ tự các đối tượng đang mở
F6 Di chuyển vòng quanh các phần tử giống nhau trong một cửa sổ hoặc trên màn hình Desktop
F4 Sổ nội dung của thanh địa chỉ trong cửa sổ My Computer hoặc Windows Explorer
Shift + F10 Hiển thị thực đơn tắt (thực đơn ngữ cảnh) của đối tượng đang chọn
Alt + phím cách Hiển thị thực đơn hệ thống (System menu) của cửa sổ đang kích hoạt
Ctrl + ESC Hiển thị thực đơn Start
Alt + ký tự gạch chân trên thực đơn lệnh Thực hiện lệnh tương ứng
F10 Kích hoạt thanh thực đơn lệnh của ứng dụng đang được kích hoạt
->, <-, Up, Down Di chuyển giữa các đối tượng đang chọn trong cửa sổ, giữa các nhánh lệnh trên thanh thực đơn lệnh
F5 Cập nhật cho cửa sổ đang kích hoạt
Backspace Trở về thư mục cấp trên liền kề của thư mục hiện tại trong cửa sổ My Computer hoặc Windows Explorer
ESC Bỏ qua tác vụ hiện tại
Giữ Shift khi bỏ đĩa CD Ngăn cản việc chạy các chương trình tự động từ đĩa CD

2/ Phím tắt trên hộp thoại

Phím tắt Chức năng
Ctrl + Tab Chuyển sang thẻ kế tiếp trong hộp thoại
Ctrl + Shift + Tab Chuyển về thẻ phía trước trong hộp thoại
Tab Chuyển đến các phần lựa chọn, lệnh kế tiếp
Shift + Tab Chuyển về các phần lựa chọn, lệnh phía trước
Alt + Ký tự gạch chân Thực hiện lệnh tương ứng có ký tự gạch chân
Enter Thực hiện thiết lập hoặc nút nhấn đang kích hoạt
Phím cách Chọn hoặc bỏ chọn trong ô chọn (checkbox)
Mũi tên Chọn một nút nếu đang ở trong một nhóm có nhiều nút chọn
F1 Hiển thị phần trợ giúp
F4 Hiển thị danh sách giá trị của đối tượng đang kích hoạt
Backspace Trở về thư mục cấp cao hơn liền kế trong các hộp thoại lưu và mở

3/ Phím đặc biệt trên bàn phím

Phím Chức năng
Windows Hiển thị thanh thực đơn lệnh khởi động Start Menu
Windows + D Thu nhỏ hoặc phục hồi tất cả các cửa sổ đang mở
Windows + E Mở cửa sổ Windows Explorer
Windows + F Tìm kiếm
Windows + L Khóa màn hình, khóa máy (Windows XP trở lên)
Windows + M Thu nhỏ hoặc phục hồi tất cả các cửa sổ đang mở
Windows + R Mở cửa sổ Run (tương ứng Start - Run)
Windows + U Mở trình quản lý các tiện ích - Utility Manager
Windows + Tab Di chuyển giữa các tiêu đề cửa sổ đang mở trên thanh tác vụ - Taskbar
Windows + Break Mở cửa sổ System Properties.

Print Screen

Chụp màn hình

Alt + Print Screen

Chụp cửa sổ đang được kích hoạt

Thứ Bảy, 21 tháng 3, 2009

Thủ thuật nâng cấp máy tính

18 thủ thuật nâng cấp máy tính

[FD's BlOg] - Theo thời gian sử dụng, máy tính sẽ ngày càng chạy chậm hơn. Tài nguyên mất dần mà không rõ nguyên nhân… Xin giới thiệu 18 thủ thuật giúp cải thiện và nâng cấp máy tính.




1 - Windows hỗ trợ hai công cụ khá mạnh để “dọn dẹp” rác trong máy tính, đó là Disk Cleanup và Disk Defragmenter. Bạn nên thường xuyên chạy hai chương trình này để máy mình được “gọn gàng” hơn.
Theo lời khuyên của những chuyên gia, bạn nên chạy Disk Cleanup (với lệnh Start > Run, gõ cleanmgr rồi nhấn Enter ) trước để xóa hết rác trong máy. Sau đó, bạn cho chạy Disk Defragmenter (với lệnh Start > Run, gõ dfrg.msc rồi nhấn Enter) dồn File và xóa các “khoảng trống” để lại khi các File rác bị xóa, giúp tăng dung lượng ổ đĩa cho máy. Tuy nhiên, vẫn còn những File ẩn bị “thải” ra sau khi chạy chương trình dồn đĩa, do đó bạn cần chạy Disk Cleanup một lần nữa để xóa sạch chúng.
Ngoài ra, để thuận tiện cho việc sử dụng,bạn nên đưa icon của Disk Cleanup và Disk Defragmenter: vào màn hình Desktop, vào My Computer > Local Disk ( C:) > WINDOWS > System32, tìm đến hai file cleanmgr , và dfrg , click chuột phải chọn Sent to > Desktop. Như vậy là từ nay, bạn chỉ cần gõ chuột lên icon của chúng là được.

2 - Thông thường khi máy tính bị trục trặc, có thể cho chạy System Restore để trở về trạng thái hoạt động tốt nhất gần đó nhất. Tuy nhiên, nó không thể chạy các chương trình đã bị lỗi nên “có cũng như không”.
Còn có nhiều cách khác để thay thế cho System Restore như bung file Ghost hoặc tốt nhất là chạy Safe Mode để cởi bỏ các chương trình bị lỗi, hay cài lại Driver cho các phần cứng. Do đó, nên tắt tính năng System Restore để lấy lại tài nguyên cho máy.
Bạn nhấp chuột phải lên My Computer chọn Properties > System Restore, sau đó chọn từng ổ đĩa, bấm nút Settings... và hạ thấp dung lượng đĩa dùng cho muc̣ đích System Restore. Tiếp theo chọn Turn off System Restore on all drivers / OK. Bạn kiểm tra lại sẽ thấy dung lượng ̣đĩa trống tăng lên đáng kể.



3 - Khi gọi một lệnh bất kì, Windows thường kiểm tra sơ bộ các nhóm lệnh có liên quan. Nhóm lệnh đó làm cho nhiều chương trình chạy rất chậm, mục đích của việc làm này đơn giản chỉ là kiểm soát việc đăng nhập các cửa sổ, dò tìm các lỗi phát sinh trong hệ thống thông tin hệ điều hành.

Đây không phải là tính năng cần thiết cho máy, nên có thể tắt nó đi: nhấp chuột phải vào My Computer, chọn Properties > Advanced, mục Error Reporting , chọn Disable error reporting.



4 - Đối với nhiều chương trình quét máy hoặc thậm chí ngay cả với Windows, những file có nguồn gốc từ hệ thống luôn được bảo vệ, không thể xóa chúng một cách thủ công, đặc biệt là các file ghi nhớ thông tin của trình duyệt web, các file ghi nhớ thông tin mở tài liệu...
Chúng thường được lưu vào một thư mục có chức năng như một bộ nhớ ảo. Nếu dùng máy càng lâu thì số thông tin không cần thiết này càng nhiều, gây lãng phí bộ nhớ của máy.
Tuy không thể xóa các file đó nhưng có thể kiểm soát lượng file được phép lưu vào máy. Khi dung lượng vượt quá qui định, những file cũ sẽ bị xóa để thay bằng file mới hơn.
Để làm được điều này, bạn nhấp chuột vào My Computer, chọn Properties > Advanced. Mục Performance, bấm Settings. Ở ô Advanced, chọn Virtual memory, bấm Change, chọn Custom size, với Initial size (MB) là 2 MB và Maximum size (MB) là 200 MB. Nếu máy không cho phép lựa chọn này, thì có chọn No paging file để thay thế.
Nhiều máy tính sẽ bị trục trặc khi thay đổi thông số trên nên bạn hãy ghi nhớ hai thông số gốc trước khi thay đổi. Nếu việc thay đổi gây ra những trục trặc thì hãy phục hồi lại rồi gia giảm chúng để đạt được thông số mà máy tính chấp nhận.



5 - Một trong những nguyên nhân khiến máy tính chạy chậm là do thiết lập quá nhiều tài khoản sử dụng. Với mỗi tài khoản, hệ thống phải chia một ít tài nguyên cho việc lưu trữ thông tin (nếu có). Dù không có thông tin nào để lưu thì bạn cũng không thể dùng nguồn tài nguyên đó cho mục đích khác được. Vì vậy, bạn đã bỏ không khá nhiều dung lượng ̣đĩa mà không để làm gì. Cách tốt nhất là thiết lập tài khoản cho một người sử dụng duy nhất.
Bạn nhấp chuột vào My Computer, chọn Properties > Advanced. Mục User Profiles, bấm Settings, và xóa bỏ tất cả các tài khoản không dùng tới, chỉ để lại một tài khoản duy nhất để máy làm việc.



6 - Khi đăng nhập vào Windows, cứ mỗi thao tác bạn tác động lên chương trình, Windows sẽ tự động sao lưu mọi thông tin vào bộ nhớ. Mục đích nhằm hỗ trợ cho việc tham khảo thông tin về những gì đã xảy ra trong máy tính.
Tuy nhiên, thời gian sử dụng càng lâu thì thông tin càng nhiều. Do đó, theo các chuyên gia, bạn nên tắt chúng đi: vào Start > Run, gõ compmgmt.msc, chọn tiếp Services and Applications > Services, chọn COM+Event System và COM+System Application, gõ Enter,và đưa Statup Type về trạng thái Disabled.



7 - Mỗi khi cài đặt một phần mềm, theo mặc định của nhà sản xuất, nó sẽ được đưa vào chương trình tự chạy khi Windows khởi động, giúp các trình diệt Virus, Trojan, bảo vệ máy tốt hơn. Tuy nhiên, khi có quá nhiều chương trình cùng chạy sẽ làm giảm tốc độ của máy tính. Vì vậy bạn nên khóa khả năng tự khởi động của chúng.
Hãy vào Start > Run, gõ msconfig, trong mục Startup, đánh dấu tick vào những chương trình không muốn chạy khi máy khởi động, rồi bấm OK. Máy tính sẽ khởi động và tắt nhanh hơn rất nhiều.



8 - Khi khởi động máy, theo mặc định, các nhóm dịch vụ kèm theo của Windows cũng sẽ được kích hoạt, mặc dù đôi lúc cũng không cần thiết lắm cho người sử dụng. Do đó, cách tốt nhất giúp máy chạy nhanh và tiết kiệm dung lượng cho bộ nhớ, là tắt tất cả các dịch vụ không cần thiết đó đi.
Hãy vào Start > Run, gõ services.msc, trong cửa sổ mới, chọn từng mục, nhấn Enter, chọn Disable cho tất cả các dịch vụ ngoại trừ Windows Audio, Network Connection, Plug and Play, Remote Procedure Call ( RPC), Telephony.
Nếu không đủ kiên nhẫn để làm theo cách đó, bạn có thể vào Start > Run, gõ msconfig, mục Sevices, chọn Disable All / Apply, sau đó tick lại những dịch vụ vừa nêu, và nhấn OK.
Thiết lập này rất tốt cho những máy tính quá yếu. Nếu là máy Petium II hoặc Pentium III, thiết lập này có thể tăng tốc máy tính lên 100%. Tuy nhiên, nếu máy tính từ Pentium IV trở lên thì không cần phải tinh chỉnh những thiết lập đó.
Một lưu ý là có nhiều chương trình diệt virus... cũng đặt các lệnh dịch vụ trong này, nếu nhận diện được chúng, bạn hãy “né” những lệnh đó ra.



9 - Có khá nhiều chương trình hoặc dịch vụ của Windows có khả năng được kích hoạt để chạy vào một khoảng thời gian nào đó. Hiện tượng này xảy ra vào lúc máy phải xử lý những dữ liệu có kích thước lớn nên thường gây treo máy. Để máy hoạt động ổn định hơn, bạn hãy tắt tính năng này đi bằng cách vào Start > Run, gõ tasks để vào Task Scheduled, xóa tất cả các mục trong đó nếu có.

10 - Khi cài phần mềm, bạn thường được hướng dẫn chọn Yes liên tục cho đến khi kết thúc. Nếu làm như vậy, bạn đã cài tất cả những thông tin không cần thiết trong gói sản phẩm đó. Nó́ cũng có nghĩa không thể kiểm soát những gì đưa vào máy tính.
Theo lời khuyên của các chuyên gia, khi cài một chương trình, bạn nên chọn là Custom, sau đó lựa chọn những gì muốn cài.

11 - Khi cài đặt Windows, theo mặc định, các nhóm dịch vụ kèm theo cũng được đưa vào máy, tuy nhiên có nhiều dịch vụ đã quá lỗi thời và nặng nề, nên bạn có thể loại bỏ chúng cho nhẹ máy và tiết kiệm tài nguyên.
Bạn vào Start > Run, gõ control > Add or Remove Programs > Add/Remove Windows Components, và chỉ cần để lại những chương trình sau - Indexing Services, World Wide Web Services, Management and Monitoring Tools, Networking Services, Windows Media Player (nếu bạn dùng Internet Explorer thì để mục này lại nhưng nên chuyển sang Fire Fox vì nó tốt và an toàn hơn).

12 - Thông thường, bạn dùng Add or Remove Programs để gỡ những chương trình không cần thiết ra khỏi máy, nhưng với khá nhiều phần mềm, sau khi làm như vậy, một số tập tin của chúng vẫn nằm lại trong Program Files và rải rác ở những nơi khác. Do đó, sau khi xóa bất kì một tập tin nào, bạn cũng nên vào Start > Search, gõ tên của phần mềm đó, và xóa tất cả những gì còn sót lại của chúng trong bảng kết quả. Hoặc bạn cũng có thể vào My Computer > Local Disk ( C:) > Program Files để kiểm tra và xóa những gì còn sót lại của chúng.

13 - Khi tải một chương trình về máy hoặc nhiều chương trình không muốn sử dụng nữa nhưng cũng không muốn xóa đi vì biết đâu có lúc cũng cần dùng đến chúng. Đó là những nhu cầu bình thường nhưng Windows thì không hiểu ý bạn.
Trong quá trình mở hoặc tắt máy, nó cũng tự động quét qua luôn các chương trình này nếu đó là những chương trình chạy nền. Điều đó làm giảm hiệu năng làm việc của máy tính.
Bạn cần phải “nói” cho Windows biết những chương trình nào chưa dùng ngay bây giờ bằng cách vào Start > Run, gõ prefetch, lựa tên những chương trình nào bạn muốn và xóa đi.

14 - Việc trang trí cho Desktop trông thật ấn tượng có thể phần nào giúp bạn làm việc hứng thú hơn, nhưng nó sẽ khiến cho tốc độ xử lý dữ liệu của máy chậm lại. Thậm chi, nó́ còn làm cho màn hình mau xuống cấp và làm giảm tuổi thọ, nhất là những máy yếu.
Nếu máy tính quá yếu, và muốn bảo vệ màn hình đồng thời giúp máy chạy nhanh hơn, bạn nên dùng kiểu desktop đơn giản nhất: bấm chuột phải vào My Computer chọn Properties > Advanced, mục Performance, bấm Settings. Ở̉ ô Visual Effects, bạn chọn Adjust for best performance. Màn hình của bạn sẽ rất đơn giản, bù lại, máy của bạn sẽ chạy nhanh hơn.

15 - Một điều cần chú ý khi cài đặt các phần mềm là không nên dùng nhiều phần mềm cùng chức năng trong cùng một máy lý vì sẽ làm nặng máy, tốn tài nguyên. Nhiều khi, các chương trình này xung đột lẫn nhau làm treo máy hoặc thậm chí hư cả hệ điều hành. Do đó, bạn nên nhớ loại bỏ các chương trình cùng nhiệm vụ trong máy, chỉ giữ lại cái có tầm vực hoạt động mạnh nhất.

16 - Mỗi khi mở một File, cài đặt một chương trình, ghé thăm một địa chỉ..., Windows tự động làm một bản nháp chứa đựng tất cả các thông tin, thậm chí cả nội dung của chúng. Hiện tượng này chắc chắn sẽ làm ổ đĩa mất khá nhiều dung lượng. Tuy bạn không thể dừng được chức năng này nhưng nên thường xuyên “ghé thăm” để dọn dẹp và xóa cho sạch sẽ.
Vào Start > Run, gõ recent, trong cửa sổ mới hiện ra, tô khối toàn bộ và gọi lệnh Delete. (Đây cũng là nơi bạn cũng có thể tìm lại những File mình đã mở nhưng không nhớ nó ở đâu để kiếm).

17 - Trong quá trình hoạt động, Windows sẽ tự động sao lưu các trạng thái của các cửa sổ được mở ra để hỗ trợ cho việc đăng nhập lại trong lần sau được dễ dàng hơn. Tuy nhiên, theo thời gian tài nguyên dành cho việc lưu giữ sẽ ngày càng tăng và làm chậm hoạt động của máy. Bạn nên tắt tính năng này vì nó không có lợi nhiều cho hoạt động của máy.
Bạn nhấp chuột phải vào My Computer chọn Properties > Advanced, mục Startup and Recovery, chọn Settings, trong Write debugging information chọn là (none).

19 - Khi máy bị treo, đừng vội vã tắt máy, hãy chờ 5 phút - có thể máy đang xử lý quá nhiều dữ liệu nên không chịu tiếp nhận những nhiện vụ khác. Nếu bị treo thật, hãy thử ấn vào nút Reset trên máy để đưa hệ thống về trạng thái Stand By (nếu là Laptop-bạn hãy gập[đóng] máy lại), sau đó Reset lại một lần nữa, trong màn hình mới Windows sẽ cho bạn biết có bao nhiêu chương trình đang chạy cùng lúc, bạn nhấp chuột vào tên tài khoản của mình là lại có thể làm việc tiếp.